Con cháu các tù nhân biệt xứ
|
|
Ông Trần Văn Cân với tấm thẻ đeo trên ngực
áo |
Năm 1931, sau khi khởi nghĩa Yên Bái
thất bại, 525 tù nhân Việt Nam bị bắt đày đi Côn Đảo, sau đó bị đày biệt xứ
sang Guyane thuộc Pháp và giam tại một trong những nhà lao ở Cayenne, gọi là
nhà lao An Nam. Gần 80 năm qua, sự kiện đó dường như ít còn được mấy ai nhắc
đến nữa.
Vừa qua, có mặt tại Guyane
nhân dịp VN phóng vệ tinh Vinasat-1, phóng viên TT đã tìm đến nhà lao An
Nam, vùng đất khổ sai của nhiều tù nhân biệt xứ người Việt trước đây. Con cháu
những cựu tù ái quốc năm xưa lần đầu tiên có dịp nói về cội nguồn của mình.
Từ khi lên kế hoạch sang
Guyane để đưa tin sự kiện VN phóng vệ tinh Vinasat-1, tôi cứ ám ảnh làm sao tìm
lại được con cháu của những người tù khổ sai đi đày ở đây từ năm 1931, sau khởi
nghĩa Yên Bái. Những tưởng mọi chuyện không thể, vì gần 80 năm đã qua…
Những người Việt ở Guyane
Trong cơn mưa như trút nước,
tôi đứng tại địa điểm quan sát dịch chuyển tên lửa Ariane-5 chở vệ tinh
Vinasat-1 ra đến bãi phóng, bất chợt nghe ai đó hỏi bằng tiếng Pháp: "Ông
là người Việt à?". Hóa ra là một nhân viên an ninh của Trung tâm không
gian Kourou từ xa quan sát các nhà báo đang tác nghiệp. Đó là một người đàn ông
đứng tuổi, da hơi ngăm đen, trong ánh mắt ông hiện lên nét mừng rỡ. "Đúng
thế. Chào ông", tôi trả lời. "Tôi tên là Trân Van Cân", ông ta
phát âm không dấu, song cũng phát âm được chữ "â”, "Cha tôi, ông nội
tôi là người Việt. Tất cả đều tên là Trân Van Cân". Thật mừng rỡ! Một
trong những "đối tượng tìm kiếm" của tôi đây rồi.
Và ông đưa tôi đi gặp những
người Việt ấy. Họ sống rải rác ở Guyane. Họ tự giới thiệu là con cháu của những
tù nhân biệt xứ năm xưa. Bác sĩ Kim, một bác sĩ chuyên khoa dạ dày - đường
ruột, sinh sống ở Guyane từ tám năm qua, nồng hậu tiếp đón tôi trong nhà ông.
Ông cho biết: "Ở đây có nhiều người mang họ tên Việt, song da thì đen và
không nói được một từ tiếng Việt. Hỏi họ, họ chẳng nhớ gì về gốc gác Việt của
mình. Họ là con cháu của các tù nhân thuở trước".
Bác Vũ, một chuyên gia nông
nghiệp quốc tịch Pháp về hưu, sang Pháp cùng gia đình từ thời Ngô Đình Diệm,
sau này dọn sang Guyane, cũng nói: "Họ không biết nhiều về gốc gác Việt.
Song cũng có một số người tết đến là đón tết Việt". Ông Nghĩa, chủ một nhà
hàng ở Kourou, kể: "Mỗi năm, chúng tôi đều tổ chức đón tết. Cũng có những
người da đen họ Việt đến ăn tết cùng chúng tôi".
Không chỉ có 525 tù nhân
biệt xứ?
|
Tài liệu của nhà sử học Marchal về các tù
nhân yêu nước Việt |
Đầu tháng 3-2008, lục lọi trên các
website của Pháp tìm tài liệu chuẩn bị cho chuyến đi Guyane, bất ngờ tôi tìm
được không ít tài liệu về việc có đến 525 tù nhân người Việt đi đày sang nhà
lao Guyane năm 1931, sau khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại trước đó một năm.
G.Marchal, một nhà sử học Pháp, có lưu lại trên website của mình bức ảnh chụp
tài liệu sau:
"Chủ nghĩa dân tộc và
nổi dậy ở Đông Dương.
- Các nhóm cực đoan nổi lên
tại các xứ bảo hộ của Pháp ở Đông Dương.
- Tháng hai, đồn binh
- Quan toàn quyền e sợ một
cuộc nổi dậy mới, đã quyết định tống các phần tử khuynh đảo đến một vùng đất xa
thẳm. Tháng 4-1931, 525 tù chính trị Đông Dương xuống tàu sang
Tôi gửi thư điện tử cho nhà
sử học G. Marchal hỏi thăm về con số 525 tù chính trị Đông Dương này, một tháng
sau nhận được câu trả lời vắn tắt: "Danh sách các tù nhân này hiện đang
lưu tại văn khố ở
- Ông năm nay bao nhiêu
tuổi?
- Tôi sinh năm 1948.
- Có phải cha ông đã sang
đây vào khoảng những năm 1930 không?
- Không, vì cha tôi sinh năm
1922 ở Guyane này. Ông nội tôi, cũng tên Trân Van Cân, phải đến đây trước đó.
Đến lúc nào thì tôi không biết, chỉ biết rằng sau đó ông lấy bà nội tôi rồi
sinh ra cha tôi năm 1922.
Chợt nhớ lại một tài liệu
của Pháp ghi rằng vào cuối thế kỷ 19 đã có những tù chính trị người Việt bị đưa
sang Guyane. Trần Văn Cân bằng xương, bằng thịt trước mặt tôi là con cháu của
những người tù ái quốc người Việt đầu tiên đi đày biệt xứ ở Guyane này, từ cuối
thế kỷ 19, trước cả khởi nghĩa Yên Bái. Nếu đúng như ông Cân nói, nhà lao An
Nam đã "đón" tù nhân VN từ trước năm 1931, và ở đó sẽ không chỉ là
mảnh đất khổ sai của 525 tù nhân người Việt.
Khởi nghĩa Yên Bái
Ngày 26-1-1930, tại Mỹ Xá
(Nam Sách, Hải Dương), hội nghị đại biểu toàn quốc của Việt Nam Quốc dân đảng
quyết định khởi nghĩa đồng loạt ở một số tỉnh Bắc kỳ vào đêm 9 rạng ngày
10-2-1930. Do quá trình chuẩn bị gặp nhiều trắc trở, Nguyễn Thái Học quyết định
hoãn ngày khởi nghĩa đến 15-2. Nhưng ở nhiều địa phương, khởi nghĩa vẫn bắt đầu
vào đêm 9 rạng 10-2. Nơi nổ súng đầu tiên và quyết liệt nhất là Yên Bái (do đó
có tên gọi chung là khởi nghĩa Yên Bái).
Ở Yên Bái, Phú Thọ, nghĩa
quân chiếm một số nơi nhưng không giữ được, ngay sáng 10-2 bị dập tắt. Ở Hà Nội
chỉ kịp tạo ra một số vụ nổ bom ở sở cảnh sát, sở mật thám... Ở Kiến An, Hải
Dương, mãi đến ngày 15-2 mới nổi dậy, chiếm được Vĩnh Bảo (Hải Dương) và Phụ
Dực (Thái Bình), nhưng không đánh chiếm được Phả Lại, Hải Dương. Khởi nghĩa Yên
Bái thất bại, những người lãnh đạo chủ chốt (Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu,
Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp...) bị bắt và bị kết án tử hình.
Trong số 525 tù nhân người
Việt bị đưa đi đày sang Guyane năm 1931 sau khởi nghĩa Yên Bái, ngoài những
người bỏ mình trong thời gian bị giam giữ, còn có những người trong sổ ghi là
được trả tự do, thậm chí có người ghi là được trả về VN như ông Vũ Văn Ninh.
Cũng như số tù nhân bị đi
đày sang Guyane trước họ, từ cuối thế kỷ 19. Họ là ai? Số phận họ ra sao? Tôi
tìm Sở văn khố lưu trữ tỉnh Guyane, những tài liệu ở đó của các nhà nghiên cứu
người Pháp nói lên nhiều điều.
Khai hoang
Theo Danielle Donet-Vincent
(Trung tâm nghiên cứu khoa học Pháp) trong "Nhà tù cho người Đông Dương
tại Guyane" (Les bagnes des Indochinois en Guyane 1931-1963), tù nhân Đông
Dương đến
Cũng theo Danielle
Donet-Vincent, nghị định ngày 18-9-1936 ấn định việc cấp đất rừng cho tù nhân
mãn hạn khai hoang canh tác. Qua năm sau, bảy tù nhân trại Crique Anguille
(Suối Lươn) được trả tự do, được giao đất để phá rừng canh tác. Bốn tù nhân
khác của trại Saut Tigre (Cọp Vó) cũng được cấp rừng để khai hoang canh tác.
Một người được cho phép làm việc trong các mỏ vàng của Công ty Société Nouvelle
de Saint-Élie (Guyane ngày nay cũng đang khai thác vàng). Bốn người khác đi làm
thuê cho các đồn điền (nông trường) và làm nghề đánh cá.
|
|
|
Tuy được trả tự do song họ
bị hạn chế di chuyển, tạo ra tâm lý bi quan về chương trình cấp đất rừng để
khai hoang canh tác. Tôi đọc thấy trên một tấm biển trong trại Crique Anguille
thông điệp đại ý như sau: Chương trình cấp đất rừng khai hoang là để cho các tù
nhân có cơ hội làm lụng sinh nhai sau khi mãn hạn tù. Họ hi vọng sẽ có ngày hồi
hương với chút ít của cải dành dụm. Nhưng do không thấy ngày về nên sau này họ
bỏ bê việc canh tác.
Danielle Donet-Vincent cho
biết khi chính phủ Mặt trận Bình dân nắm quyền ở Pháp sau cuộc bầu cử năm 1936,
19 người được trả về nguyên quán. 19 trên tổng số gần 500 người còn lại là quá
ít, khiến họ càng thêm thất vọng. Tuy vậy, trong thực tế đã chỉ có 15 người
được về quê hương, qua ngả các cảng
Khu người Đông Dương
Guyane là một tỉnh hải ngoại của Pháp, nằm
ở bờ bắc của Nam Mỹ. Nhà lao An Nam nay chỉ là một trong số 30 nhà lao rải
rác trên lãnh thổ Guyane. Trong gần một thế kỷ, từ khi được thành lập vào năm
1854, các nhà lao ở Guyane đã chứa tổng cộng khoảng 70.000 người, đa số là
người Pháp. Đến Thế chiến thứ hai, do chiến tranh và đường sá xa xôi không có
tiếp tế nên công tác quản lý bị thả nổi. Nhiều tù nhân đã bỏ trốn qua nước
láng giềng |
Giám đốc Sở Văn khố lưu trữ tỉnh Guyane,
ông Guyot, cho tôi biết: "Một số sau này ra trại, sống tập trung ở khu vực
Saint-Laurent du Maroni, tạo thành khu gọi là Quartier chinois (khu người Hoa)
mà thật ra là rút ngắn từ cụm từ quartier Indochinois nghĩa là khu người Đông
Dương. Họ trồng trọt, chăn nuôi, trồng lúa... Họ lập gia đình với người bản xứ,
thường là người da đen hay người lai. Lần hồi, khu người Đông Dương bị pha trộn
dòng máu, không còn "nguyên thủy" nữa. Con cháu họ cứ mang tên họ cha
ông mà không nhớ gì về cha ông. Hiện tại trong hội đồng thành phố có một người
mang họ Việt". Danielle Donet-Vincent viết về một đặc điểm của những người
tù Đông Dương sau khi ra trại như sau: "Tại Guyane ngày nay, các phương
pháp đánh cá của tù nhân Đông Dương vẫn còn được sử dụng".
Rồi thì tất cả cũng qua đời.
Theo tác giả nêu trên, người tù của chuyến tàu năm 1931 cuối cùng sống cho đến
đầu năm 2000. Sau khi ra tù, ông làm lụng vất vả trong các mỏ vàng và nhận
Guyane là quê hương thứ hai. Năm 2006, các đài truyền hình ARTE - RFO và
Bác Đinh Vũ, một chuyên viên
nông nghiệp của Pháp sang Guyane sau khi về hưu, nói với tôi: "Có lẽ người
Việt thuần túy ở Guyane là những người mới đến, còn con cháu các cụ thì dù mang
họ tên Việt nhưng không còn nhớ nhiều về tổ tiên". Chủ nhật, chúng tôi lên
chợ Cacao. Một chị tuổi xấp xỉ 60 lặng lẽ bán bánh cuốn cho chúng tôi. Chợt
nghe chị nói tiếng Việt với một ai đó, mới hay chị cũng là người Việt. Hỏi
chuyện, chị cho biết chị từ Hà Nội sang Lào năm 1954, rồi sang Pháp, rồi sang
đây phụ bán cho cô em vài tháng. Gần chợ có một ông thầy dạy võ Việt cổ truyền,
miệng hô "Dam thang. Dam vong" không bỏ dấu cho nhóm trẻ ngoại quốc,
nghe cũng ấm lòng khi thấy có VN ở nơi xa xôi này.
Quả là những số phận lưu
lạc!
|
Tấm bảng ghi "Nhà
lao An Nam" ở gần cửa rừng lối vào nhà lao - Ảnh: D.Đức |
Bác sĩ Kim và bác sĩ Danh, hai bác sĩ
Việt kiều Pháp tại Guyane, là hai người đồng hành quí báu của tôi. Từ cả tháng
trước, qua liên lạc thư điện tử, tôi đã hỏi thăm bạn bè ở Guyane về địa danh
nhà lao An
Bác sĩ Hi, tháng 11-2007 còn
sinh sống tại Guyane trước khi dời sang đảo La Réunion tận châu Phi, đã giới
thiệu tôi cho bác sĩ Kim và dặn dò: "Hãy đến thăm nhà lao An Nam và viết
bài cho dân VN biết". Bác sĩ Kim cho biết ông có nghe nói đến nhà lao song
chưa đi đến đó, ông nhắc: "Làm sao đưa hài cốt các cụ về nước". Sau
đó, ông liên lạc với bác sĩ Danh (sang Pháp năm 1990 làm thực tập bác sĩ nội
trú) và trả lời với tôi: "Anh Danh đã từng đi đến nhà lao An Nam rồi, nên
sẽ dẫn đường cho chúng ta".
Giữa rừng già
Suốt từ trưa 16-4 đến sáng
18-4, trời mưa tầm tã không ngớt trên khắp Guyane. Bác sĩ Kim bảo: "Mưa
này không tài nào vô rừng đến nhà lao được". Đến tối 18-4, tên lửa Ariane
chở vệ tinh Vinasat-1 phóng lên không gian trong bầu trời trong vắt, chả bù với
sáng hôm trước phải di chuyển vệ tinh ra bãi phóng trong cơn mưa tầm tã. Vụ
phóng vừa được loan báo thành công, mọi người từ phòng chỉ huy của trung tâm
không gian xuống đất, chưa kịp nâng ly rượu mừng trời đã lại mưa. Trong bụng
chúng tôi lại thầm lo. Kim bảo: "Điệu này thua rồi". Nào ngờ, trên
suốt con đường về lại
Sáng 19-4 cũng thế, không
hẳn là trời quang mây tạnh, song không có gì đe dọa rằng sẽ có mưa. 10 giờ, bác
sĩ Danh đưa chúng tôi đi trên chiếc xe Peugeot phục chế của anh: "Đi xe
này các anh ạ. Chú đi xe BMW của anh Kim, đến đó bỏ xe ngoài đường, tránh bị kẻ
xấu lấy mất xe giữa rừng". Trước đó, lúc 8 giờ, trời còn mưa vài hạt. Giờ
thì trời quang mây tạnh trên con đường từ Cayenne đi Kourou. Đường vào nhà lao
An Nam là một con đường mòn giữa rừng già Amazon, tại một khu vực mang tên
Montsinéry - Tonnégrande. Montsinéry là tên của một làng ở bìa rừng, còn
Tonnégrande là tên của một dòng sông, nghĩa là "sấm to, sét lớn". Đến
ngã ba Montsinéry cách
Phải loay hoay tìm tới tìm
lui mới tìm ra lối vào nhà lao An Nam. Một tấm bảng chữ được chữ mất
"Bagne des Anamites" ở gần cửa rừng. Ai đó ghi thêm "45 phút đi
bộ", bên cạnh một tấm bảng khác ghi "Propriété privée. Defense dentrer",
xác định đây là "tài sản tư nhân, cấm vào". Nghĩa là giữa cánh rừng
già bao la, nhà lao này thuộc về một ai đó và ai đó ra lệnh cấm vào. Nhưng đã
vượt cả nửa vòng trái đất qua đây rồi, không ai ngăn được chúng tôi vai đeo
balô, tay cầm gậy và mã tấu mà xông vào rừng. Rừng già Amazon là đây. Nhà lao
An Nam là đây. Ráng lội bộ vào thôi.
"Chuồng cọp"
|
Một phần nền nhà còn sót
lại của nhà lao An |
Từ cửa rừng đi vào là những bãi sình lầy
lội. Muốn di chuyển cho dễ phải tránh đi vào giữa đường mòn bùn sình nhão
nhoẹt, mà đi sát vào ven đường. May là hôm nay không mưa nên bùn không qua mắt
cá chân.
Sau những bãi sình còn có
thể lội qua được là những đoạn sình lầy nhất được phủ bằng những thanh gỗ ngang
khoảng 60cm, như một con đường bằng gỗ. Càng vào sâu đường mòn càng hẹp lại. Có
những đoạn trên nền cát và đất không sình lầy nên bước chân không vất vả.
Thỉnh thoảng một thân cây to
trốc gốc vắt ngang đường, những cành cây nằm ngang mặt đường tạo thành một mạng
lưới chằng chịt. Bác sĩ Danh dùng mã tấu chặt những cành nhỏ dọn đường cho tôi
leo qua dễ dàng hơn. Con đường thoai thoải xuống dốc. Đi mãi, hơn một giờ rưỡi
thấy một tấm bảng chỉ dẫn vẽ bản đồ nhà lao, khu vực nhà lao nay còn được gọi
là La crique danguille (suối Lươn). Danh cho biết người ta hay gọi đây là những
con lươn điện (anguilles electriques) có thể phóng ra những tia điện lên đến
700volt. Rẽ trái chúng ta sẽ đến khu vực nhà lao. Chẳng còn gì ngoài dãy chuồng
cọp bằng bêtông từng nhốt các tù nhân VN bất khuất.
Khu vực nhà lao An Nam xuất hiện trước chúng tôi bằng một hiện vật khá bất ngờ: hai hố xí (cầu tiêu) bằng ximăng xây cao khoảng 1m, không có vách, "trần truồng" để lính canh có thể quan sát xem tù nhân đang làm gì, có giấu giếm gì không, có mưu đồ gì không... Gần đó là hai dãy "chuồng cọp". Mỗi bên 16 cái, mỗi "chuồng cọp" kích thước 1x2m, cao 2m. Trên trần là song sắt, không có mái che, để lính canh có thể đi bộ phía trên mà quan sát tù nhân. Quang cảnh lạnh lẽo thê lương, nhất là trong một buổi trưa trời muốn mưa giữa rừng già.
Sau khởi nghĩa Yên Bái, có 525 người Việt bị bắt và đưa đi đày ở Côn Đảo, sau đó họ bị đưa sang tận Guyane. Đó là lý do giải thích trong truyện Papillon, người tù khổ sai, Henri Charrière có nhắc đến các bạn tù Đông Dương của mình tên là Chang và Văn Huê cùng các tù nhân An Nam khác.
"- Anh là bạn thân của Chang à?
- Phải, anh ấy báo tôi đến kiếm Quých - Quých để cùng vượt ngục với nhau. Tôi đã có lần vượt ngục đi rất xa, đến tận
- Tốt lắm. Chang xăm những gì trên người?
- Ở ngực, một con rồng; bàn tay trái, ba dấu chấm. Anh nói ba cái dấu đó chỉ rõ anh ấy là một trong các thủ lĩnh cầm đầu cuộc nổi loạn ở Côn Đảo. Người bạn thân nhất của anh ấy cũng là một người chỉ huy cuộc nổi loạn, anh này tên là Văn Huê, anh này bị cụt một tay".
"Chúng ta chia nhau thắp hương từng chuồng cọp. Chắc đã từng có tù nhân qua đời trong các chuồng cọp này", tôi nói và mọi người đồng ý ngay. Tôi lấy từ trong balô bó nhang Bắc chia cho các bạn đồng hành. Các chiến sĩ tham gia khởi nghĩa Yên Bái phần lớn là người Bắc nên tôi mang nhang Bắc sang. "Cắm nhang vào các bản lề ở cửa dãy này", bác sĩ Kim bảo.
Gần 80 năm rồi, mục nát hết,
chỉ những bản lề bằng sắt này còn lại. Các cánh cửa đâu mất hay là người ta đã
tháo gỡ đi, chỉ còn trơ lại các bản lề to tướng này? Nhà
lao An Nam đã bị đóng cửa từ
năm 1945. Vào thời điểm đó, xứ Guyane còn thưa thớt, hoang sơ, những cánh cửa
bằng sắt đó có thể đã bị gỡ để dùng vào việc khác. Trong "chuồng cọp"
thứ ba bên trái còn sót lại những tấm ván mục mà trước đây là "giường"
cho các tù nhân ngủ. "Theo bài báo cáo của một Việt kiều lâu năm ở Guyane
mà tôi từng được nghe ở một hội nghị, trong nhà lao có một nghĩa địa chôn các
tù nhân qua đời, song lâu quá cỏ mọc đầy nên mất dấu luôn", bác sĩ Danh nói.
Ở nhà lao An Nam, chẳng
mấy tù nhân tin rằng mình có thể quay lại quê nhà, đạo luật "gấp đôi bản
án" (Ll loi du "doublage") buộc các tù nhân sau khi được phóng
thích phải ở lại châu lục này một khoảng thời gian dài bằng thời gian thi hành
án phạt, nếu như họ chỉ bị án dưới 8 năm. Còn nếu bị kêu án trên 8 năm thì
phải bị biệt xứ suốt đời. (Trích "Le bagne de
Guyane", tư liệu của đài phát thanh nước Pháp hải ngoại RFO) |
Tôi lấy từ trong balô ra cái lư hương mang từ quê nhà sang. Hôm nọ, qua đến nơi lấy ra từ vali, tuột tay nên lư hương rơi xuống đất vỡ thành chục mảnh. Sáng nay 6 giờ thức dậy lấy băng keo dán lại. Tôi lấy nhang cắm vào lư hương. Khói hương nghi ngút từ cửa "chuồng cọp", mỗi "chuồng cọp" ba cây nhang. Trong chốc lát, cả khu vực "chuồng cọp" trở nên ấm cúng hẳn. Mùi nhang Bắc xông lên thơm phức đánh bạt cái mùi ngai ngái của lá cây mục, thật ấm áp, xua đi cái lạnh lẽo của rừng già và sự lãng quên suốt gần thế kỷ qua.
Lúc nãy trên đường vào nhà
lao, chúng tôi gặp hai người đàn ông Tây phóng xe từ bên trong đi ra. Một người
quốc tịch
Quả thật, nếu không có
chuyến đi Guyane để đưa tin về phóng vệ tinh Vinasat-1, có lẽ chẳng bao giờ tôi
lục lọi trên Internet để phát hiện ra có một nhà lao An Nam ở xứ Guyane này đã
từng là nơi giam cầm 525 tù nhân ái quốc Việt Nam và hầu hết đã bỏ xương nơi
đất khách quê người trong cô độc.
|
Một hố xí còn lại ở nhà lao An Nam |
Từ trong balô tôi lôi ra chai rượu nếp
mới Hà Nội mang từ quê nhà sang, rót vào ba cái chung cùng một bộ với lư hương.
Tất cả chúng tôi chỉ biết khấn thầm trong lòng: "Các cụ sống khôn chết
thiêng, xin về nhấm chút rượu thành kính con cháu mang sang kính các cụ”.
Cả một trại tù năm xưa nay
chỉ còn lại hai dãy chuồng cọp và vài mảnh vụn của các nền nhà cùng mấy cái hố
xí! Thế còn các cựu tù nhân đâu, các cụ đang nằm ở nơi nào?
|
Ông Đỗ Văn Phong (thứ ba từ trái sang,
ngồi) ẵm con trai út Đỗ Như Ngọc (cha của kỹ sư Đỗ Thái Bình) trước khi bị
lưu đày biệt xứ sang Guyane |
"Địa ngục trần gian" ở Guyane
giam cầm không chỉ 525 chí sĩ ái quốc của cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1931.
Trước đó, vào ngày 15-12-1930, một trong các cựu tù người Việt từng vượt ngục
Guyane qua đời tại tỉnh Bạc Liêu.
Ông là Đỗ Văn Phong, lãnh
đạo địa phương của phong trào Đông Kinh nghĩa thục tại tỉnh Phúc Yên (nay thuộc
tỉnh Vĩnh Phúc), và cũng là người khai sinh thương hiệu Mai Lĩnh một thời lừng
lẫy.
Bí mật từ cuốn gia phả
|
Kỹ sư Đỗ Thái Bình
(trái) và nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn với các tấm ảnh về gia đình Mai Lĩnh và
ông Đỗ Văn Phong |
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn còn
giữ cuốn sách Nhà xuất bản Mai Lĩnh viết về một thương hiệu in ấn - xuất bản có
tên tuổi giai đoạn 1936-1945. Trong một bài viết in trong sách, cố GS.TS Đỗ Tất
Lợi - nguyên chủ tịch Hội Dược liệu VN - đề cập câu chuyện vượt ngục Guyane của
chính ông nội mình là Đỗ Văn Phong.
Ông Đỗ Thái Bình - kỹ sư
đóng tàu ngụ ở đường Nguyễn Tất Thành (quận 4, TP.HCM) và cũng là cháu nội của
ông Phong, người đang giữ cuốn gia phả của đại gia đình Mai Lĩnh - cho biết ông
Phong sinh năm 1860 trong một gia đình Nho giáo tại xã Xuân Mai (Kim Anh, Phúc
Yên cũ). Ông thường giao du với các nhà nho yêu nước và đã tham gia phong trào
Đông Kinh nghĩa thục.
Thời bấy giờ, Đông Kinh
nghĩa thục là phong trào chấn hưng dân trí bằng cách thay đổi tư tưởng, cách
thức học tập do các nhà nho có tư tưởng tiến bộ khởi xướng vào đầu năm 1907.
Nhận thấy đây là một mối nguy đối với chế độ thuộc địa, thực dân Pháp thẳng tay
đàn áp, ông Phong và một số đồng chí bị lưu đày sang Guyane.
Cuốn gia phả ghi rằng vào
năm 1924, gia đình nhận được tin ông Phong đã về lại Việt
Ông Phong đã cùng 12 người
khác vượt ngục trên một chiếc bè và trôi dạt vào đảo Trinitrad (lúc bấy giờ là
thuộc địa của Anh), sau đó được một số người Hoa che chở. Sau khi bắt được liên
lạc với tổ chức, tổ chức thu xếp cho ông nhập quốc tịch Trung Hoa và cải dạng
như một người Hoa sang VN hành nghề chữa bệnh. Trên chuyến tàu hỏa từ Vân
Nhưng hoạt động của các nhà
nho yêu nước tại Long Xuyên không qua mắt được mật thám Pháp. Thấy không ổn,
các ông bèn xé lẻ xuống nhiều địa phương: Vĩnh Long, Rạch Giá, Châu Đốc, Trà
Vinh, Mỹ Tho, Cần Thơ, Bạc Liêu… Khi ông Phong được phân công xuống tỉnh Bạc
Liêu hoạt động, ông Đỗ Văn Năm cùng vợ tiếp tục đi theo làm lụng mua bán, hỗ
trợ cha mình tổ chức hoạt động yêu nước cho đến lúc ông Phong trút hơi thở cuối
cùng vào ngày 15-12-1930 tại Bạc Liêu. đến năm 1943, gia đình về Bạc Liêu bốc
mộ, sau đó tổ chức cải táng và thờ phụng tại Xá Lợi Phật Đài (Sài Gòn).
Nỗi khắc khoải hậu thế
|
Ông Đỗ Văn Phong cải
dạng người Trung Hoa khi trở về VN hoạt động cách mạng |
Không chỉ dành cả cuộc đời
hoạt động yêu nước, nhà nho Đỗ Văn Phong còn là người sáng lập thương hiệu Mai
Lĩnh nổi tiếng. Theo các ghi chép của con cháu ông Đồ Chưng (một thành viên của
phong trào Đông Kinh nghĩa thục), trong thời gian cùng ở tù, biết mình mang án
nặng không biết sống chết ra sao nên ông Phong có ý gửi gắm ông Đồ Chưng cưu
mang, dẫn dắt con cháu mình đừng bỏ chính theo tà.
Ông Phong mong muốn mọi hoạt
động của con cháu đều thống nhất mang một tên chung là Mai Lĩnh để nhắc nhở đùm
bọc lấy nhau, nhớ về nguồn cội (thôn Mai, núi Lĩnh) và xây dựng cơ nghiệp bền
vững lâu dài (đọc ngược lại thành Linh Mãi).
Sách của Mai Lĩnh được độc
giả đón nhận nồng nhiệt bởi hướng mạnh về văn hóa dân tộc, khơi gợi lòng yêu
nước. Đó là những cuốn Đông Kinh nghĩa thục, Đời cách mạng Phan Bội Châu của
Đào Trinh Nhất; đó là Tắt đèn, Việc làng của Ngô Tất Tố; là hàng loạt tác phẩm
nặng ký khác gắn với các tên tuổi lớn như Trần Trọng Kim, Nguyễn Lân, Nguyễn
Tuân, Vũ Trọng Phụng… Sau năm 1944, vì nhiều lý do, sách của Mai Lĩnh không còn
được xuất bản. Một ngày giữa tháng
4-2008, trong lúc vệ tinh Vinasat-1 đang sắp được phóng lên quĩ đạo từ vùng đất
khi xưa là "địa ngục trần gian" Guyane, thì tại một căn nhà ở quận
Phú Nhuận (TP.HCM) có hai người đàn ông đang khắc khoải hướng về phương trời xa
lắc đó: kỹ sư Đỗ Thái Bình và nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn, thế hệ thứ 3 và thứ 4
của nhà Mai Lĩnh.
Bên tấm bản đồ thế giới trải
trên bàn, hai ông chụm đầu vẽ lộ trình thực hiện ước mơ được một lần trong đời
đặt chân đến nhà tù ở Guyane. Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn bộc bạch: "Đến lúc
từ giã cõi đời, ông ngoại, mẹ và cả bố tôi vẫn ôm ấp ước mơ một ngày nào đó cụ
Đỗ Văn Phong không còn vô danh nữa, và đóng góp của nhà Mai Lĩnh cho kháng
chiến, cho ngành xuất bản cũng được ghi nhận". Nằm
bình yên giữa cánh đồng lúa ở rìa thôn Tứ, xã Hồng Việt, huyện Đông Hưng, tỉnh
Thái Bình là một nghĩa trang nhỏ. Trong nghĩa trang ấy có ngôi mộ của một số
phận lớn - ông Lương Duyên Hồi, sinh năm 1903, người tù từng bị đày đi Guyane.
Cách mộ chừng 500m là ngôi nhà ông ngày trước (hiện con trai thứ sáu của ông
đang ở).
Con nhà nho
Tại ngôi nhà đó, vào năm 1925, ông Hồi đã cùng hai người bạn mở thư viện làm nơi trao đổi thông tin, kiến thức, thể hiện tinh thần yêu nước, lấy tên là Đông Anh thư viện. Đông Anh thư viện từng tổ chức lễ truy điệu nhà yêu nước Phan Chu Trinh (năm 1926), sắp xếp những cuộc nói chuyện bổ ích cho người dân quanh vùng. Sau đó, vào năm 1927, ông Hồi xin mẹ bán đi hai mẫu ruộng để mở trường tư thục lấy tên là Minh Thành học hiệu ở thị xã Thái Bình, nhận dạy cho học sinh nghèo bậc tiểu học và trung học. Trường cũng là nơi ra đời chi bộ đầu tiên của VN Thanh niên cách mạng đồng chí hội vào nửa cuối năm 1927. Họ kết bạn từ khi trọ học cùng nhau ở thị xã Thái Bình. Mối quan hệ giữa họ được thể hiện trong bút tích hồi ký của ông Lương Duyên Hồi do gia đình ông còn lưu lại được. Việc ông Hồi đi theo cách mạng có thể được báo trước, không chỉ do ông được những người bạn hướng đạo, mà còn do ông vốn xuất phát từ một dòng họ có truyền thống chống giặc ngoại xâm. Ông nội của Lương Duyên Hồi là cụ Lương Quy Chính, thông minh ham học, thi đậu cử nhân, làm đến chức quan thượng thư văn võ song toàn, trải qua các đời vua Tự Đức, Hàm Nghi, Đồng Khánh và Thành Thái. Cha ông là nhà nho học, thông hiểu chữ Hán, uất hận vì đất nước bị Pháp chiếm đoạt, thường lưu bạn Đông Du trong nhà, không muốn con theo học và làm việc với Pháp. Từ nhỏ, ông Hồi được học chữ nho và chữ quốc ngữ từ các ông giáo lân cận. Cha ông bắt cưới vợ, ông bèn ra điều kiện: "Đồng ý cưới vợ sau khi được lên tỉnh học để mở mang đầu óc, nắm được tình hình trong nước và thế giới". Năm 1920, ông lên tỉnh học và gặp các bạn Diên, Năng. Chuyện cưới vợ gác qua một bên.
Biểu tình, bị bắt và bị đi
đày
"Bắt Pháp đế quốc phải
giảm thuế, miễn sưu! Năm nay cho cấp thóc gạo cho dân! Tha những người bị bắt
ra! Đền tiền các làng bị tàn phá! Để tự do đi lại và hội họp!", đó là
những dòng khẩu hiệu nổi bật trong cuộc biểu tình ở Thái Bình vào ngày 1-5-1930
với gần 1.000 người tham gia, được ghi lại trong cuốn Lịch sử Đảng bộ Thái Bình
giai đoạn 1927-1954.
Cuộc biểu tình do ông Lương
Duyên Hồi tổ chức và lãnh đạo, đây là cuộc biểu tình nông dân lần đầu tiên của
hai huyện Duyên Hà - Tiên Hưng do ông Hồi làm bí thư liên chi ủy. Đoàn biểu
tình đã bị đàn áp, hơn 200 người bị bắt. Tháng 9-1930, tòa thượng thẩm Pháp đã
tiến hành xử vụ "Cộng sản ở Thái Bình", ba người lãnh đạo cuộc biểu
tình là Bùi Hữu Diên, Lương Duyên Hồi và Trần Văn Ngọ bị kết án nặng nhất: mười
năm phóng trục do tội "âm mưu đánh đổ chính phủ bảo hộ và
Rồi cuộc đi đày khổ ải đã
đến: "Chiều 17-5 -1931, tàu M. đi lấy tù từ Bắc kỳ, qua Trung kỳ, vào
Một nhà nho yêu nước bị giam cầm hơn 24 năm ở Guyane
Ông Lương Như Truật trước căn nhà 329/6D Phan Thanh Giản (ảnh chụp trước năm 1960) |
Anh Lương Như Khôi (sinh 1968, ở quận 3, TP.HCM) cung cấp cho TT sổ passport và một xấp hồ sơ tiếng Pháp và Việt về cha ruột của mình là nhà nho Lương Như Truật (sinh năm 1905, người Trà Kiệu), tham gia khởi nghĩa Yên Bái bị kết án chung thân khổ sai đày đi Côn Đảo, sau đó bị lưu đày sang Guyane năm 1931.
Do nói giỏi tiếng Pháp nên sau một thời gian bị giam cầm, ông Truật được đặc cách cho đến phục dịch tại nhà các công chức Pháp. Trong thời gian này, ông được cho lập gia đình với vợ góa một sĩ quan Pháp. Đến ngày 22-1-1955, ông được trả tự do. Cũng trong năm 1955, ông đưa vợ và sáu con về nhà tại 329/6D đường Phan Thanh Giản (nay là 329/29 đường Điện Biên Phủ, quận 3, TP.HCM).
Từ khi trở về VN, ông Truật được chế độ Sài Gòn tuyển dụng làm công chức tại Bộ Cải tiến nông thôn. Đặc biệt, do đã từng tham gia khởi nghĩa Yên Bái và bị lưu đày biệt xứ nên ông còn được chính quyền Sài Gòn cho hưởng "biệt lệ mặc nhiên lưu dụng cho đến khi nào không còn đủ sức khỏe". Ông Truật mất vào tháng 2-1984 tại địa chỉ nói trên. Ngoài sáu con ở Guyane, ông còn hai con trai ở quê Quảng
Hàng chục ngày lênh đênh
trên biển, họ bị đối xử ra sao? Điều gì thật sự đã diễn ra trên hòn đảo xa xôi
Guyane? Hàng chục trang hồi ký của ông Lương Duyên Hồi về chuyến đi sẽ trả lời
tất cả
Chiều 17-5-1931, con tàu Martiniere chở
Lương Duyên Hồi cùng bạn bè đồng chí rời Côn Đảo ra đi. Dưới đây là những trang
viết thuật lại hàng chục ngày lênh đênh trên sóng nước được trích từ hồi ký
viết tay Từ Đảng ra đời cho đến khi đi đày Guyane của ông Lương Duyên
Hồi, sau khi nhận được đề nghị kể lại cuộc đi đày từ Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng trung ương vào tháng 12-1969.
Giữ tư thế người Việt
Chuyến tàu này tất cả có 537
người. Anh em chính trị phạm có hơn 100 người, đa số là anh em tham gia các vụ
bạo động Yên Bái, Phú Thọ, Kiến An, Vĩnh Bảo, Phụ Dực... Hầu hết bị kết án tù
chung thân, 20 năm, 15 năm cho đến 10 năm.
Lên tàu xong, vào chuồng xí
tôi thấy có máy nước biển đưa lên bèn cởi quần áo ướt ra, giũ cho hết nước mưa.
Vô tình cái quần bị nước biển cuốn đi mất! Thế là duy nhất tôi còn một cái áo.
Đang lúc khó nghĩ thì anh Uẩn, một bạn tù người Vĩnh Bảo, để lại quần cho tôi.
Rồi chúng phát cho chúng tôi mỗi người một chăn đơn, một võng dệt có vòng sắt
mắc lên mạn tàu. Cứ sau bữa ăn xong hoặc khi có sóng gió to mới được mắc võng
lên nằm. Anh em còn tự động nhắc nhở nhau về cách giữ vệ sinh và đối xử với
binh lính địch phải giữ tư thế con người Việt
Tàu Martiniere có bảy tầng, chúng tôi ở tầm ngang mặt biển, có ba khoang. Toa tầng dưới là chỗ chứa đồ vật để thức ăn, nuôi dê, cừu, bò, lợn... Ba tầng trên là chỗ đại đội lính thủy đóng, có một quan năm chỉ huy và đại đội lính lê dương do một tên quan ba điều khiển, là đơn vị áp tải chúng tôi. Đội lính thủy là đơn vị làm chủ tàu, mỗi khi đi sửa chữa máy móc trên tàu phải qua chỗ chúng tôi ở, không tỏ thái độ gì. Còn đội lê dương đa số là người có tư tưởng phân biệt màu da, có đầu óc chính quốc với bản xứ, nhất là bộ phận quân y thiếu lương tâm nhà nghề. Chẳng hạn như tên đội thuốc, mỗi khi đến lấy, anh em tù khai ốm, đi khám bệnh, nó hoạnh họe đủ trò, nói năng thô bỉ. Tụi canh gác đa số ra vẻ cừu thị anh em. Có đêm chúng tiêu khiển bằng lối múc nước hắt vào võng anh em đang ngủ. Mỗi tuần lễ một lần chúng vào khám chỗ anh em nằm, chúng nắn từng củ tỏi của anh em trong túi.
Không quên tuyên truyền vận
động
Ảnh ông Lương Duyên Hồi chụp ngày 2-9-1985
nhân dịp ông được trao tặng Huân chương độc lập hạng 3, Huân chương kháng
chiến chống Mỹ hạng 2, Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng 3, Huy hiệu 50
năm tuổi Đảng. Một năm sau đó ông qua đời |
Tàu Martiniere của Pháp
chuyên chở tù nhân sang Mỹ châu, không chở thuê hành khách. Khi ấy chúng sợ anh
em thợ thuyền các bến ghé qua biểu tình phản đối việc đưa chúng tôi đi đày nên
chúng không dám cho tàu cập bến nào cả.
Tàu khởi hành từ Côn Đảo
trong bờ biển Đông (Thái Bình Dương), qua Ấn Độ Dương sang Đại Tây Dương, chiếu
đường biển đi Cayenne, thủ phủ của Guyane, ròng rã 45 ngày đêm, 25.920 cây số
mới tới. Khi còn trên mặt biển Ấn Độ Dương, chúng đậu lại ngoài khơi, phía nam
châu Phi gần thuộc địa Anh, độ hai cây số để chuyển than và lấy nước ngọt.
Sóng biển Đại Tây Dương thật
là hùng vĩ, không sóng biển đại dương nào bì kịp. Qua Đại Tây Dương có rất
nhiều anh em bị say sóng. Có người không ăn uống mà vẫn bị nôn mửa. Có người
nằm yên trên võng không sao, trở dậy đi ngoài, đi tiểu lại bị nôn mửa. Bản thân
tôi bấy giờ tuy còn tuổi thanh niên, nhưng không phải là loại tráng kiện gì,
nghe nói đến bị say sóng biển cũng thấy hoang mang. Hay đâu tôi vẫn bình
thường, không bị say sóng, không bỏ bữa cơm nào. Có một số anh em cũng tương
tự.
Sóng biển càng to thì số phận anh em trên tàu càng bị đe dọa, cả tụi lính gác cũng vậy. Những đồ vật trên tàu nếu không có cữ, có nắp hãm lại, thì nó vẫn bị xô đẩy hoài, tiếng va chạm vào nhau gây thành náo động cả tàu, làm cho người bị say sóng cảm thấy rất khó chịu. Bạn cùng thuyền, cùng bến, cùng đi, nhiều anh em bị đau ốm, phần nhiều do say sóng bị nôn mửa sinh bệnh. Thân tù đày bị bệnh nặng, gặp tụi quân y không phải là lương y, không quan tâm cứu chữa, cho nên đã xảy ra tình trạng mấy người bị thiệt mạng. Khi chết rồi, chúng cho bó người cùng thanh sắt rồi thổi một hồi còi tàu chào vĩnh biệt, thả cần cẩu từ từ đưa người xấu số xuống biển! Thật là "Tây tha sa miệng cá” kiếp tù đày!
Chuyến đi này ba anh em
chúng tôi (Lương Duyên Hồi, Bùi Hữu Diên, Trần Văn Ngọ - tức Cận) cùng chung
một vụ án biểu tình, cùng ở chung với nhau trong khoang mũi, thường để tâm vào
công tác tuyên truyền vận động anh em chính trị phạm cũng như thường phạm, cùng
nhau trao đổi tâm tình ý thức, để cùng nhau giữ gìn phẩm cách con người trong
lúc phương trời đày đọa.
Sáng sớm nào cũng vậy, ba
khoang trại đều có người đi lấy bánh mì và nước uống về để anh em ăn sáng thì
bạn Diên nảy ra một ý nghĩ: nếu chúng ta biết đoàn kết gây thành lực lượng chặt
chẽ, chúng ta có thể nhân cơ hội buổi sáng sớm, chúng có tình trạng sơ hở,
chúng ta cùng nhau nổi dậy, tính việc chớp nhoáng, chiếm lấy tàu này, bắt chúng
phải quay tàu trở lại, theo lệnh của ta điều khiển. Anh em bàn tính lại thấy
rằng lực lượng chúng ta còn non yếu, chưa cho phép chúng ta làm được việc táo
bạo này.
Sang ngày thứ 45, trông ra
xa vẫn thấy còn xa, chưa in rõ màu xanh của cỏ cây đất nước. Anh em đều mong
muốn được chóng vào bờ, cho gần khí đất với cỏ cây. Vì đã trải qua nhiều ngày
đêm lênh đênh trên mặt biển dưới trời, trong đầu óc người nào cũng hình như
thiếu một vật gì mà chưa có thể hình dung ra được.
Rồi sóng biển Đại Tây Dương
dịu lại, lộ rõ màu đất nước với cỏ cây.
Trích hồi ký Lương Duyên Hồi)
Rồi sóng biển Đại Tây Dương dịu lại, lộ rõ màu đất nước với cỏ cây. Thủ phủ
Anh em nhiều người bỡ ngỡ, vào trại rồi còn đứng lại nhìn, một bạn tù bị tên đội xếp đen tát cho một cái điếng người. Thái độ tàn nhẫn ấy đã gây nên một làn sóng căm phẫn trong anh em bạn tù, đều đồng thanh nhao nhao phản đối: "Nếu không đuổi tên đội xếp này đi, chúng ta sẽ bãi thực để phản đối lại". Sau tên toàn quyền Guyane buộc phải can thiệp khéo, đổi tên đội xếp kia đi, bầu không khí căng thẳng trong anh em mới được trở lại bình thường.
Nhà tù Guyane trong các đô
thị như
Đáng lẽ ra anh em chúng tôi
còn được nghỉ lại
của anh em lắm, cho nên mặc
dù là nơi ở nhất định chưa chuẩn bị kịp, chúng đã vội chia rẽ lực lượng đoàn
kết của anh em bằng cách chuyển 200 anh em (trong đó có bạn Bùi Hữu Diên và
tôi, còn bạn Trần Văn Ngọ ở lại) đi Phô-rét-che, là một khu vực riêng biệt ở
phía tây Guyane. Còn hơn 300 anh em tù các loại (thường phạm) còn ở lại
|
Ảnh chụp tại Guyane vào ngày 22-12-1958 do
cựu tù nhân Nguyễn Đắc Bằng gửi cho ông Lương Duyên Hồi. đằng sau tấm ảnh
ghi: "Anh chị em ký quyết nghị phản đối vụ thảm sát Phú Lợi, tôi ngồi
giữa, vợ chồng Ký Ngữ ngồi hai bên" |
Vì chuẩn bị chỗ ở chưa kịp,
trên đường đi Phô-rét-che, chúng tạm cho anh em vào Xanh-lô-răng nghỉ mấy tuần.
Trong lúc này, bạn Diên thấy có hoàn cảnh mới đề ra việc viết báo Nhân Hòa để
giáo dục anh em.
Trên phi lộ của Nhân Hòa có
đoạn viết: "Nhân Hòa ra đời kêu gọi tất cả anh em bạn tù chúng ta bị đọa
đày sang xứ này, dù là chính trị phạm hay thường phạm, là người theo chủ nghĩa
quốc gia hay chủ nghĩa xã hội có khác nhau, nhưng tất cả chúng ta đều bị bọn
thực dân Pháp áp bức và bạc đãi. Vậy chúng ta phải đoàn kết lại, không thể vì
tư hiềm, vì chính kiến có khác nhau mà chia lìa Nam Bắc, ngại bước đấu tranh để
cho chúng khinh thường!"... Sau khi đến Phô-rét-che, bị hoàn cảnh ngặt
nghèo hơn, tờ báo Nhân Hòa không còn tiếp tục ra mắt anh em nữa.
Những dòng hồi ký của Lương
Duyên Hồi do gia đình lưu giữ ngừng lại trước thời điểm năm 1938, là năm ông và
những người bạn được ân xá sau khi Mặt trận Bình dân Pháp lên nắm quyền. Nhưng
Bùi Hữu Diên, bạn thân của Lương Duyên Hồi, đã không còn được chứng kiến ngày
tự do, ông đã mất do ốm đau tại Guyane chỉ vài năm sau khi bị đi đày. Một số
bạn tù đã quyết định ở lại Guyane. Tuy mỗi người một sự lựa chọn, những cựu tù
VN cùng hướng về tình yêu lớn: Tổ quốc.
Ông Hồi tích cực hoạt động
cách mạng sau khi về nước, ông tham gia phong trào mặt trận Việt Minh khởi
nghĩa cướp chính quyền tại phủ lỵ Tiên Hưng, rồi trở thành ủy viên Huyện ủy
Tiên Hưng (1948-1949), lãnh đạo chống càn tại địa phương (1950-1954), được Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Thái Bình đề cử và trúng cử đại biểu Quốc hội khóa
II (1960-1964). Về hưu năm 1964, ông từ chối tiêu chuẩn căn nhà riêng được cấp
ở thị xã Thái Bình, về quê sống giản dị và tiếp tục tham gia công tác mặt trận
tại xã nhà (Hồng Việt) và bốn khóa ủy viên mặt trận huyện Đông Hưng. Ông qua
đời năm 1986.
Gia đình ông Lương Duyên Hồi
cho biết một người được thả về cùng với ông Hồi là Trần Văn Ngọ sau này trở
thành phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Vĩnh Phú. Ở lại Guyane, một người bạn của
ông Hồi là ông Nguyễn Đắc Bằng đã lập gia đình, sinh con đẻ cái với người bản
xứ nhưng vẫn tiếp tục cùng với các cựu tù Việt
Câu chuyện cuộc đời, quá trình đấu tranh cách mạng do Lương Duyên Hồi viết trong hồi ký cho thấy ông và những người bạn coi sự nghiệp chung là lẽ sống, nghĩ đến Tổ quốc trước khi nghĩ đến bản thân mình. Có lẽ bởi vậy mà con cháu ông còn nhớ mãi cách sống của ông: nghiêm khắc, liêm khiết, tiết kiệm, không ngừng học hỏi.
Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục,
học giả Nguyễn Hiến Lê viết một đoạn ngắn nhưng có khả năng gây xúc động mạnh
về ông Nguyễn Quang Diêu: "Người nghe nói có phong trào Đông Du thì hăm hở
xuất dương, tới Hương Cảng bị Pháp bắt rồi đày đi Guyane ở Nam Mỹ.
Sau cụ Diêu trốn thoát, về
Trung Hoa, rồi cả gan dám về ngay Cao Lãnh, tổ chức một đảng cách mạng. Việc
thất bại, phải trốn lên dạy học ở một miền giáp ranh Miên - Việt. Về sức vùng
vẫy và tính mạo hiểm của cụ, ít ai bì kịp". Lần theo lịch sử, ông Diêu quả
là người như thế.
Chí tang bồng
Ông Nguyễn Quang Diêu sinh
năm 1880 trong một gia đình khá giả lại có truyền thống Nho học ở Cao Lãnh
(Đồng Tháp). Năm 6 tuổi, ông học vỡ lòng chữ Nho. Năm 10 tuổi học chữ quốc ngữ.
Cụ thân sinh và các thầy dạy đều là người yêu nước. Được tiếp xúc với những
người có chí khí, thương nòi yêu nước, ông Diêu sớm thấm thía được nỗi nhục mất
nước của cả dân tộc, sớm mang lấy mộng dời non lấp bể vào mình. Ông ngày đêm
đèn sách, nhưng cũng nhận ra việc theo đòi từ chương sẽ không cứu được nước.
Tính tình sôi nổi và có phần nóng nảy, cậu Năm
Diêu để tâm theo dõi thời
cuộc để tìm một con đường mới.
Vừa khi ấy, phong trào Đông
Du lan đến miền
Nguyễn Quang Diêu lập tức
thâm nhiễm những tư tưởng và chủ trương của Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, và
ngay lập tức đứng vào hàng ngũ những người đi tiên phong trên đường đấu tranh
cứu nước. Có tài hùng biện và giao du rộng, việc đầu tiên của Năm Diêu là tham
gia cùng với Nguyễn Thần Hiến vận động tài lực, vật lực ủng hộ phong trào Đông
Du. Được nhiều người hưởng ứng, Năm Diêu càng hăng hái. Các buổi nhóm họp bí
mật trong các đình chùa, các buổi vận động trong các cửa tiệm, các chợ không
thỏa chí ông nữa, ông muốn xuất ngoại. Thân phụ đã đồng ý nhưng các đồng chí
muốn giữ ông lại để thúc đẩy phong trào tại địa phương, ông sốt ruột thổ lộ
trong một bài thơ tự thuật: Tuổi tác đã vừa ba chục chẵn/Công danh chưa có
ít nhiều khi/Rừng cao yến đỗ nương nhờ chô/Gió thuận hồng mong gặp gỡ khi/Xem
khắp thế tình rồi nghĩ nghị/ Muốn noi thánh trước cưỡi bè đi.
Cơ hội đến vào đầu năm 1913,
Cường Để, một hậu duệ của hoàng tử Cảnh, về
Đến Hong Kong, cả đoàn dành
mấy ngày cho việc bàn định quốc sự với Nguyễn Thần Hiến và Huỳnh Hưng. Mấy ngày
sau mua được một ít tạc đạn, đoàn người dự định chia làm hai: một tốp đi Hàng
Châu để hội kiến các lãnh tụ cách mạng, một tốp chờ tàu để mang tạc đạn và tín
phiếu về Sài Gòn. Chưa kịp lên đường thì cảnh sát Anh bao vây nhà Huỳnh Hưng,
tất cả bị bắt.
Tìm phương về nước
|
Ảnh chụp trong những năm 1960 tại Guyane,
cựu tù nhân Nguyễn Đắc Bằng ghi sau tấm ảnh: "Tôi cùng thanh niên địa
phương đứng trước Việt |
Ra tòa của Anh ở Hong Kong, bị trục
xuất, áp giải về nhà lao Hỏa Lò ở Hà Nội. Năm 1913, khởi nghĩa Yên Thế kết
thúc, Pháp tăng cường đàn áp, bắt bớ, Hỏa Lò chật những người yêu nước. Năm
1914, cùng với các đồng chí, Nguyễn Quang Diêu bị kết án 10 năm khổ sai và bị
đày đi Guyane. Qua muôn trùng sóng gió, đặt chân lên xứ sở xa lạ, ông cảm tác
thành thơ: Bể rộng mênh mông dòng nước biển/Nội bằng mờ mịt mạn rừng xanh/Dã
man thảm hại cho người đo/Tân khổ nài bao cái lũ mình.
Những ngày tháng dài nhọc
nhằn, thỉnh thoảng niềm hi vọng lại lóe sáng lên cùng những tin tức bạn tù nghe
ngóng được mang về. Nhưng vận hội chưa tới, những tin tức lạc quan ấy mau chóng
vỡ tan như bong bóng. Cố quốc vẫn cứ mù xa mà lòng yêu nước trong các bậc chí
sĩ ngày một thêm cháy bỏng. Mọi người bàn nhau tìm cách vượt ngục.
Trong nhóm có Lý Liễu thông
minh, tháo vát, lại biết tiếng Anh, tiếng Pháp nên được cai tù vị nể cho đi lại
tự do, làm nhiệm vụ quản lý nhà lao An Nam. Ông nhân đó tranh thủ sự ủng hộ,
giúp đỡ của một số kiều dân người Hoa, tổ chức những cuộc vượt ngục đơn lẻ vài
người một bằng cách gửi bạn tù xuống thuyền đánh cá của thổ dân, giong buồm
sang đảo
Lần lượt từng người một đến
đảo và tìm kế sinh nhai dưới vỏ bọc người Hoa, cuộc sống dần ổn định. Lý Liễu
còn lấy được vợ Anh và sinh được hai con. Tình hình cách mạng ở VN vẫn cứ mãi
im hơi lặng tiếng, mọi người họp nhau lại, Năm Diêu đưa ý kiến: "Chúng ta
vượt ngục sang đây, nay thể chất được sung túc mà tâm hồn thì quằn quại khổ đau
không hơn gì ở Guyane, phỏng có ích gì. Tôi đề nghị anh em tìm phương về
nước".
Nói là làm, Nguyễn Quang
Diêu lại là người ra đi đầu tiên. Năm 1920, ông đáp tàu vượt qua hai đại dương
mênh mông về tới Trung Quốc, gia nhập ngay các nhóm đấu tranh yêu nước. Năm
1927, ông bí mật về nước, tiếp tục gây dựng cơ sở, sáng tác thơ văn ái quốc, mở
trường học khai thông dân trí...
Ông được người dân, nhân sĩ
địa phương kính phục và hết lòng che chở, bảo bọc. Những hoạt động chính trị và
thơ văn yêu nước của Nguyễn Quang Diêu trong 10 năm hoạt động bí mật ở
mạng Duy Tân - Đông Du qua
đời ngày 15-5 năm Bính Tý (1936), chưa kịp nhìn thấy những ngày rực rỡ của lịch
sử VN. Câu thơ ông khóc Nguyễn Thần Hiến trong lao tù năm nào nay vận vào chính
mình: Chín suối có thiêng hồn tổ quốc/Trăm năm còn tạc gánh tang bồng.
Sự kiện và dư luận
|
PV TT thành kính thắp nén hương
tưởng nhớ những người anh hùng trước dãy chuồng cọp ở Guyane |
Ngay sau khi TT khởi đăng
hồ sơ "Nhà lao An
"...Biết bao người anh
hùng đã bị bắt và bị lưu đày biệt xứ hòng tiêu diệt tận gốc những mầm mống anh
hùng của dân tộc ta. Nhưng dòng máu của tổ tiên con Hồng cháu Lạc thì không bao
giờ ngừng chảy trong trái tim và huyết quản của họ cũng như con cháu họ” - đó
là một đoạn trong nhiều ý kiến của bạn đọc TT, sau khi đọc bài đầu tiên của hồ
sơ "Nhà lao An Nam ở Guyane"...
+ Tôi thật cảm động khi biết rằng có phóng viên TT nhân chuyến đi công
tác đến đảo Guyane để đưa tin về việc phóng vệ tinh VINASAT-1 đã có kế hoạch và
tìm được những người mang dòng máu của những người anh hùng năm xưa.
|
Nhà báo Danh Đức (TT) lặn lội trong rừng ở
Guyane để tìm lại nơi giam giữ những tù nhân ái quốc |
Trong lịch sử nhiều lần bị
đô hộ bởi các thế lực ngoại xâm, đã có bao nhiêu chiến sĩ cách mạng từ thời
khởi nghĩa trong thời kỳ Bắc thuộc, nhất là từ khi giặc Pháp xâm lược như các
phong trào khởi nghĩa Duy Tân, Ba Đình, Yên Thế, Yên Bái... bị bắt và bị lưu
đày biệt xứ hòng tiêu diệt tận gốc những mầm mống anh hùng của dân tộc ta.
Những người anh hùng đó đã phải chịu bao cực hình và cuộc sống gian khổ, nhưng
dòng máu của tổ tiên con Hồng cháu Lạc thì không bao giờ ngừng chảy trong trái
tim và huyết quản của họ, cũng như con cháu họ.
Trước đây, tôi đã có dịp
tiếp xúc với một số nhà khoa học da đen ở các lãnh thổ đảo thuộc Thái Bình
Dương tại các diễn đàn và hội nghị khoa học. Khi biết tôi đến từ Việt
|
Nhà lao An Nam năm xưa
nay chỉ còn lại hai dãy “chuồng cọp” và vài mảnh vụn nền nhà. Còn các cựu tù
năm xưa bây giờ nằm ở đâu? Trong ảnh: bên trong “chuồng cọp” - Ảnh:
poudrenguyane.bloq.sot.com |
Tôi đã được nghe một anh bạn da đen
người Guyane kể cha của anh phải chờ con của bạn lớn mới cưới làm vợ vì không
thể tìm được vợ ở nơi lưu đày như thế vì dân bản địa cũng rất hiếm. Anh nói anh
chỉ biết cha nói quê ở Thái Bình, còn không biết cụ thể ở đâu. Anh không nói
được tiếng Việt. Không còn mang họ tên và cả màu da của người Việt, nhưng tôi
biết dòng máu anh vẫn là dòng máu Việt vì khi gặp tôi, anh quyến luyến như tìm
được chính họ hàng.
Chính vì thế, để tưởng nhớ
công lao những người con ưu tú nhất của dân tộc vì nghĩa dân tộc mà đã hi sinh,
cháu con của họ nay còn tản mát khắp nơi, chúng ta không thể để mất dòng dõi
của họ một lần nữa. Tôi đề nghị báo TT kiến nghị với Nhà nước tổ chức bằng mọi
con đường ngoại giao, thông tin và xã hội tìm lại hậu thế của những chiến sĩ
các thế hệ năm xưa, tiến tới tổ chức vinh danh họ và tổ chức cho con cháu họ
được về họp mặt với đồng bào, Tổ quốc. Đây là một cầu nối đặc biệt của lịch sử,
một phần của lịch sử và truyền thống rất nên làm.
+ Đây là tư liệu rất quí về
các tù nhân người Việt mà thực dân Pháp giam tại đây từ thế kỷ trước. Nếu TT
cho đăng tên tuổi và quê quán của các tù nhân (còn hậu duệ tại Guyane) để sau
này có dịp họ về Việt
|
Những dãy chuồng cọp này
tại Guyane là nơi thực dân Pháp dùng để tiêu diệt những mầm mống anh hùng
Việt |
Nếu TT đăng danh sách những người bị giam ở Guyane sẽ giúp ích rất nhiều cho công tác nghiên cứu về lịch sử Việt Nam cận đại, để người đọc có thể hiểu thêm về một thời thế hệ cha anh đã hi sinh, lưu đày biệt xứ để đấu tranh cho một mục đích duy nhất là độc lập dân tộc, để con cháu các tù nhân ái quốc tìm lại cội nguồn, gốc rễ của mình. Âu đó cũng là chúng ta báo đáp phần nào sự hi sinh của những người yêu nước năm xưa.
N Tại Guy-An, Pháp dự định làm một con đường dài
chừng 300km xuyên I-ni-ni nối liền khu La-Phô với Ăng-Ghi xuyên qua Xanh-Ti
thẳng về Cay-En. Đây là con đường chiến lược và là con đường đá lớn thứ nhì ở
Guy-An. Có con đường này sẽ giúp việc khai thác tài nguyên các
cánh rừng ở I-ni-ni tiện lợi hơn, các lâm đặc sản được vận chuyển ra tàu biển
nhanh chóng hơn. Đặc biệt, nhờ con đường này mà các lực lượng vũ trang của
Pháp khỏi lo bị bắt sống trọn ổ mỗi khi có chiến tranh. 500 mạng người đổi 8km đường
Chính vì lẽ đó, chính quyền Pháp
tại Guy-An đã huy động tất cả các sắc phạm nhân từ đen, trắng, đỏ, vàng tại
bốn ngục thất bắt tay vào mở đường. Riêng số phạm nhân tại ngục thất Ăng-Ghi
(dành riêng cho phạm nhân thuộc địa Đông Dương) được chia làm 12 kíp, mỗi kíp
50 người. Nhóm một gồm sáu kíp đầu bắt đầu từ hướng La-Phô, nhóm hai gồm sáu
kíp còn lại bắt đầu từ bờ sông Sin-Na-Ma-Ri. Cả hai nhóm sẽ gặp nhau trên bờ
sông Ma-Ra để cùng kiến thiết cây cầu cuối cùng của tuyến đường. Mỗi phạm nhân được phát cho một dụng cụ lao động để mở
đường. Cứ thế kẻ phát cỏ, cưa gỗ, người cuốc đất phá đá, những mét đường đầu
tiên bắt đầu hé lộ. Nhưng vì gai góc quá nhiều, khí hậu lại ẩm thấp, lương
thực chỉ là cơm nắm ăn với lá chua, trái đắng rừng... nên chẳng bao lâu đã có
vài người bắt đầu gục ngã. Người sình bụng lên như cái trống. Chỉ cần thế,
đám lính Pháp lập tức ném xuống sông làm mồi cho cá sấu. Để khủng bố tinh
thần, bọn lính da đen còn dùng lưỡi lê đâm xuyên qua bụng những người bị ốm
không làm được việc một cách tận lực rồi dìm xuống suối cho cá sấu, lươn điện
(một loại lươn phóng ra điện) ăn, rỉa. Trong quá trình lao động khổ sai,
không ít người đã bỏ mạng giữa rừng sâu vì bị rắn độc cắn, cọp, beo vồ ăn
thịt mất xác. Công việc đang tiến hành thì phát sinh một bệnh dịch kỳ
quái. Trước hết người bệnh bị nóng hầm, mắt đỏ ngầu, sau đó đi tiểu ra nước
đỏ như máu. Bệnh dịch không trừ một ai từ phạm nhân da màu đến lính Pháp da
trắng. Cứ thế ngày nào cũng có canô chở xác phạm nhân và lính về Cay-En. Một
bác sĩ đã được phái đến tìm hiểu bệnh tình nhưng rồi cũng đành bó tay. Thời
gian trôi qua, vì dịch bệnh mà chẳng mấy chốc người vơi đi trông thấy. Đầu
năm 1938, khi viên toàn quyền mới của Guy-An tên Masson de Saint Félix nhận thấy
số phạm nhân bị sút mất quá nhiều, nhất là số lính trông coi phạm nhân, nên
ông ra lệnh đình chỉ việc phá rừng mở con đường nói trên. Tính ra con đường
ấy mới làm xong chưa đầy 8km nhưng số phạm nhân bỏ mạng lên đến gần 500
người. "Khẩu hiệu của ngục thất Guy-An là phải làm cho phạm nhân biết
làm việc bằng chân tay, làm việc cho mệt nhừ, cho ê ẩm thân xác. Có như thế,
chúng mới im cái mồm nói chính trị, xúi giục dân chúng làm loạn" - một
tên lính da đen rạch mặt đã nói với chúng tôi như vậy. Đi đào vàng Vàng, vàng ở trong nước suối, vàng lẫn vào cát ở hai bên
bãi con sông, vàng chìm trong đất sỏi ở các đồi cao, ở khe đá. Vàng ở khắp
nơi I-ni-ni, Guy-An. Vào thời ấy, từng đoàn người dân xứ Guy-An đã lần ngược
theo các con sông Ma-rô-ni, Ma-Na, Approvagne, Oyapek để đãi cát tìm cho bằng
được thứ kim loại ấy. Lợi nhuận kếch sù từ vàng đã hối thúc viên toàn quyền
Guy-An hạ lệnh cho Chúa ngục bắt tất cả phạm nhân phải đi đãi cát tìm vàng. Nhưng nước suối lạnh như băng giá, tất cả
mọi người phải đứng ngâm nửa thân mình dưới nước. Ngày nào cũng từ sáng đến
tối và chỉ được nghỉ 15 phút vào hồi 12 giờ trưa để ăn cơm mà thôi. Trên đầu,
từng đàn mòng xanh, mòng đỏ, mòng vàng bay như ong vỡ tổ, chỉ cần chờ cơ hội
là xông xuống ghim vào đầu, vào cổ mọi người để hút máu. Ngoài lũ mòng hút máu thì giống muỗi vàng
cũng là nỗi ám ảnh kinh hoàng của các phạm nhân xứ Đông Dương. Chỉ cần 20
giây, nếu không cử động, lập tức những cánh tay dùng để đãi vàng sẽ nhuốm một
màu vàng của muỗi. Đến nước đó chỉ còn cách dìm mình xuống dòng suối mới mong
thoát khỏi nạn ruồi vàng. Cứ làm việc ròng rã như thế suốt đúng một tuần lễ
thì có đoàn người khác đến thay. Chúng tôi được phép nghỉ xả hơi hai tuần nhưng không quên
đem vàng về cống nạp cho chúa ngục. Cứ thế mỗi tuần chúng gửi về chính quốc
50-60kg vàng do phạm nhân kiếm được. Cứ mỗi ngày, mỗi phạm nhân mang về một
gram vàng cống nộp thì sẽ thoát khỏi mười hèo mây quất túi bụi vào đầu, cổ.
Còn nếu không sẽ bị chúa ngục xua chó béc-giê cắn đến tử thương. Xác phạm
nhân chết chúng đem ra làm mồi nhử cọp hoặc cá sấu để bắt lấy da đem bán nhằm
bù vào số tiền thiếu hụt của chúng. Với chúng, "không lấy được vàng thì
da cọp vậy". Trước cảnh tàn bạo dã man ấy, chúng tôi nhiều lần bàn tính
với nhau tìm biện pháp thoát khỏi tai nạn đãi cát tìm vàng. Và rồi, trong một
lần ngồi quan sát lũ chim bồ câu, một người trong hội đã phát hiện loài chim
này thường xuyên ăn những vật dụng có màu sáng tựa mạt vàng. Lập tức chiêu thức "tìm vàng bằng
chim bồ câu" đã được tính đến. Một kế hoạch huấn luyện lũ chim bồ câu
tìm vàng thay người đã được vạch ra. Theo đó, chúng tôi lén lút lấy 150 gram
vàng đãi được dụ mua một đôi chim bồ câu từ một tên giám thị Pháp - chủ nhân
của 50 con chim bồ câu. Dần dần hắn ta đồng ý cho chúng tôi toàn quyền sử
dụng lũ chim. Có chim, cả nhóm bắt tay vào việc. Trước tiên là đi lượm lặt sái thuốc phiện
của các quan Pháp vứt, đem về nấu thành nước rồi trộn lẫn với gạo sau đó cho
lũ chim ăn. Dần dần chim quen hơi. Cứ thế sau một ngày đi kiếm ăn trên khắp
các bãi vàng, đúng 5 giờ chiều khi tiếng kẻng nhà tù vang lên, lập tức lũ
chim tụ bay về không thiếu một con. Phân chim được thu dọn kỹ càng, sau đó
đem ra ngâm nước đãi lọc lấy vàng. Nhưng rồi số vàng mà lũ chim đem về vẫn
kém nên con người vẫn phải tiếp tục đi đãi vàng. Nhưng dù sao lũ chim cũng đã
làm giúp bớt một phần việc nặng nhọc cho chúng tôi. Nhà
lao An
Chủ trương của thực dân Pháp ở xứ Guy-An là phải giữ
lại tất cả những phạm nhân bị lưu đày trong xứ để có công nhân khai thác
thuộc địa Guy-An, dù đó là phạm nhân đã được ân xá hay mãn hạn tù đày. Bởi
vậy một số phạm nhân người Việt dù được ân xá ra khỏi khám đường nhưng vẫn bị
bắt buộc ở trên phần đất Guy-An để lập gia đình sinh sống đồng hóa với dân
bản xứ. Trên thực tế con số ấy không ít. Phải trả lại tù nhân cho Việt Quá phẫn uất, cuối năm 1934 đầu năm 1935, toàn thể phạm
nhân người Việt đã tổ chức một cuộc tuyệt thực kéo dài hơn một tháng để phản
đối nhà cầm quyền Pháp yêu cầu phải trả lại những người Việt đã mãn án tù đày
để họ được trở về bản xứ. Sở dĩ cuộc tuyệt thực kéo dài là nhờ chúng tôi dự
trữ được một phần lương thực. Trước đó, trong những ngày bị giam cầm ở ngục thất Ăng-Ghi, dù hoàn cảnh vô cùng đau thương, tột bậc, nhưng tất cả anh em vẫn giữ vững tinh thần cách mạng. Mỗi buổi tối, mọi người ở các lao tù đều tổ chức nói chuyện, tranh luận về các vấn đề chính trị, học tập thêm văn hóa, tu dưỡng đạo đức, giữ vững tinh thần. Mọi sinh hoạt trong nhà lao đều được phân công trách nhiệm rõ ràng. Dần dần những hình ảnh ấy đã lấy được cảm tình của lính cai ngục. Ngay sau đó Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp lên nắm
quyền đã ân xá và giảm án cho một số phạm nhân, đồng thời cho phép họ được
trở về Đông Dương. Đầu năm 1935, hơn 30 anh em vừa tù chính trị, vừa thường
phạm được đáp tàu trở về xứ sở. Tiếp đến trong các năm từ 1936-1938, triều
đình Huế liên tục gửi thư đòi Chính phủ Pháp phải trả lại cho Việt Nam những
phạm nhân đã mãn hạn tù hoặc đã được ân xá. Nhưng rồi Chiến tranh thế giới
thứ 2 bùng nổ đã khiến đường về quê mẹ của nhiều người con đất Việt trở nên xa
mù hơn. Dù nhiều lần tranh đấu đòi được trở về nước, thế nhưng
trên thực tế số người Việt được đáp tàu trở về xứ sở chiếm không bao nhiêu.
Phần lớn họ phải tiếp tục lao động khổ sai trong sâu thẳm những cánh rừng già
để khai thác gỗ quí hay đi đào vàng, kim cương. Không chịu nổi sự khổ ải tù
đày, nhiều người trong số đó đã nung nấu ý chí vượt ngục. Những cuộc vượt ngục Một đêm tối trời vào cuối mùa thu năm 1940, hai chiến sĩ
cách mạng Việt Không giấy tờ tùy thân, không người bảo lãnh lại thêm
lệnh tróc nã phạm nhân trốn tù được phát đi từ xứ Guy-An đến khắp các thuộc
địa. Lập tức chính phủ Hà Lan tống cổ C. và H. trở lại ngục thất Cay-En. Tại
đây chúa ngục đã "ban" cho hai người những chiếc gông gỗ đeo cổ và
những cặp xích xiềng nặng cả 10kg đeo vào chân. Bảy ngày sau, tòa án Cay-En
tuyên án khổ sai chung thân đối với hai người. Không hề nản chí, cả hai tiếp tục bàn kế tìm cách vượt
ngục lần hai. Một sớm mai, nhân cơ hội được đi làm ngoài, cả hai người đã tìm
đường trốn thoát và được một vị thương khách Trung Hoa quen biết giới thiệu
xuống gặp một đầu bếp làm việc cho một thương thuyền Hà Lan đang cập tại
Cay-En. Nghe qua tình cảnh của hai người, vị đầu bếp liền đồng ý nhận lời sẽ
giấu họ xuống hầm tàu: "Sáng mai tàu sẽ nhổ neo đi Tinh-Châu ( Xuống tàu, vị đầu bếp người Trung Hoa đã giấu H. trong
một bao bố đặt cạnh bếp. Trên đường về Tinh-Châu, tàu ghé đảo Mác-ti-ních ( nghe bảo "nhà đương cuộc trên đảo sắp xuống kiểm
tàu", H. liền được vị đầu bếp "tốt bụng" cho chui vào hòm
rương của mình ẩn trốn. Nhưng đen đủi thay, sau 10 giờ nằm trong rương, khi
mở ra, trước mắt H. là hàng trăm lính da đen. "Con khỉ ốm này mà thằng
Tàu kia bán đến 150 quan. Nếu vài tháng sau nó chết thì lỗ vốn bỏ mẹ”. Thì ra
H. đã bị gã đầu bếp lừa bán cho một sở trồng mía ở đảo Mác-ti-ních. Làm nô lệ đằng đẵng 18 tháng trời, một ngày kia H. được
ông chủ gọi lên: "Ông không muốn dùng mày nữa. Giờ mày muốn đi
đâu?". Như mở cờ trong bụng, H. ấp úng: "Cho xin được trở về quê
hương xứ sở". Nghe vậy viên chủ sở mía mỉm cười một cách chế nhạo. Đúng
một tuần sau, H. được "mãn nguyện" trở về nhưng không phải là quê
hương An Nam bản quán mà chính là ngục thất Guy-An ngày nào. Nguyễn Hữu Huân - người Việt đầu tiên bị đày ở Guyane?
Nguyễn Hữu Huân sinh năm 1830 tại thôn Tịnh Giang, huyện Kiến Hưng, phủ Kiến An, trấn Định Tường (nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang). Năm 1852, ông đỗ thủ khoa kỳ thi tại trường thi hương Gia Định. Sau đó, ông ra làm quan, được bổ làm giáo thọ phủ Kiến An. Sau khi Pháp hạ thành Gia Định (tháng 2-1859), giữa năm 1859, ông hợp lực với Võ Duy Dương chiêu mộ nghĩa dũng, phất cờ khởi nghĩa. Tháng 7-1862, ông đến căn cứ Tân Hòa (Gò Công) bàn việc thống nhất lực lượng nghĩa quân với Trương Định nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu chống quân Pháp. Tháng 7-1864, quan tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thận đã nhu nhược bắt ông giao nộp cho quân giặc. Ngày 22-8-1864, ông bị chính quyền thực dân kết án khổ sai chung thân, đày đi Tháng 2-1869, ông được thả về nước tìm cách liên lạc với những người yêu nước và mưu tính phát động một cuộc khởi nghĩa mới. Rồi ông bị bắt, bị xử chém ngày 15-4 năm Ất Hợi (19-5-1875). Tấm gương sáng ngời của ông vẫn được lưu giữ mãi trong ký ức của nhân dân và của hồn thiêng sông núi, đúng như một câu ca dao ở địa phương ca ngợi: Một lòng đền nợ nước non, Ngàn năm vẫn đỏ tim son anh hùng. |
Khuôn mặt ai đó chồm lên trên đầu tôi. Một người lạ, một
ông Tây da trắng. - Ông ta đã tỉnh lại rồi kìa - người đàn ông lạ đó reo
lên. Cái gì vậy? Đầu óc choáng váng, chẳng biết mình đang ở
đâu, làm gì... Bóng dáng những người thân bên cạnh nhân viên cứu hộ của đảo
Ile du Salut, hòn đảo của người tù khổ sai Papillon. Hóa ra tôi đã té trên các tảng đá này rồi bất tỉnh. Chỗ
tôi trượt chân là một bãi đá gọi là hồ tắm của các tù nhân (La piscine des
bagnards) trên bờ biển đảo Ile du Salut, gần hòn đảo Ile du Diable (hòn Quỉ).
Hòn Quỉ này là nơi cuối cùng mà "người tù khổ sai Papillon" sống
chung với Chang và Văn Lê, hai tù nhân đã từng nổi loạn ở Côn Đảo trước cuộc
vượt ngục cuối cùng của mình. Hôm thứ ba 24-4-2008 ấy, tôi đã đáp tàu ra đây
để tìm đến càng gần nơi mà hai cựu tù Chang và Văn Lê đã từng sống càng tốt,
đã lò mò xuống bãi đá trơn trượt và bị té. Nhân viên cứu hộ cố định cổ tôi lại bằng cái nịt cứng cho
cổ và cột sống khỏi thêm chấn thương, rồi chở đến trạm xá. Các thủ tục đo
huyết áp, nhịp tim: kết quả bình thường. Chờ tàu về lại đất liền. Trên chuyến
tàu trở về, lần này tôi nằm dài sõng sượt chứ không thể đứng đón sóng như ban
sáng lúc ra. Vào Bệnh viện Kourou, chụp scanner xem có chấn thương gì trong
não: kết quả tốt. Song vẫn phải ở lại 24 giờ để theo dõi. Huyết áp cả đêm vẫn
120/80 trên màn hình monitor. Chỉ có đầu là đau vì bị đập vào đá. Cuối buổi sáng hôm sau, giám đốc bệnh viện ghé vào bảo: - Cho ông ra viện để chiều nay còn kịp chuyến bay về
Pháp. Chỗ ông té trước đây ba năm đã có một quan chức cao cấp Trung Quốc
trượt chân té rồi chết, ông có biết không? - Có thể ông ấy đợi tôi đến thế chỗ ông ấy, nhưng số tôi
chưa đến nên tôi chưa nằm lại - tôi đùa trả lời.
77 năm sau chuyến tàu định mệnh của các cựu tù năm 1931,
tôi đi máy bay Air France, một chuyến bay hầu như "trên đầu" lộ
trình của con tàu La Martinière năm ấy: từ Singapore vượt eo biển Malacca rồi
Ấn Độ Dương trước khi đến Pháp đáp một chuyến Air France khác bay đến Guyane. Tổng cộng bay ba chuyến và đợi ở sân bay là hơn một ngày
rưỡi, trong tiện nghi của Air Miên man nghĩ ngợi kèm theo những mặc cảm hối lỗi vì trưa
hôm qua lè phè, đau bụng nên đã không nấn ná ở Sở Văn khố lưu trữ để chụp cho
hết hồ sơ các cụ tù nhân, hẹn hôm nay đi đảo về, mai sẽ quay lại chụp tiếp
cho hết lô tài liệu về các cụ. Giờ nằm bẹp ở đây, mai phải chuyển về Pháp để
nếu có gì xấu hơn còn tiện đưa về nước thì làm sao chụp xong số hồ sơ? Ở quê nhà biết bao người, gia đình con cháu các cụ, đọc
bài của mình sẽ mong mỏi tìm lại gốc tích tổ phụ họ như thế nào. Đừng có đổ
thừa bị đau bụng mà hôm qua bỏ dở công việc chụp lại hồ sơ về sớm. Đã có bác
sĩ Kim, chuyên gia bệnh tiêu hóa, ở đây chữa rồi, còn phàn nàn gì nữa. Ngày
xưa bao nhiêu cụ bị tả, lỵ giữa chốn rừng thiêng nước độc ở nhà lao An Nam?
Đã chẳng đọc trong một số hồ sơ các cụ, phần ghi chú của bác sĩ nhà lao ghi
cụ nào chết vì bệnh gì hay sao mà còn than với vãn! Thậm chí có cụ hồ sơ ghi
được trả tự do mà vẫn không sống được để ra trại, vì đã bị bệnh quật ngã rồi. Về đến quê nhà, lật lại xem loạt bài "Nhà lao An Nam ở Guyane", đọc những ý kiến phản hồi của bạn đọc, nhất là thân quyến các cụ, lòng tôi càng ân hận hơn vì đã không chụp hết toàn bộ hồ sơ các cụ. Xin hẹn dịp khác vậy. Dẫu sao, nay các cụ có còn nằm lại ở đó cũng không còn "vô danh" nữa vì bây giờ đã có nhiều người ở quê nhà biết rồi, nhiều người tỏ lòng tri ân các cụ rồi. Trong rừng già Amazon ấy, trước những di tích còn sót lại của các cụ, lòng thầm nghĩ: các cụ thuộc về lịch sử. Con cháu nào được phép quên. Tôi cũng đã kịp để lại dưới lư hương và ba chung rượu kính các cụ một tấm danh thiếp báo TT, bọc plastic và bỏ trong một lớp bao nilông, ghi ít chữ bằng tiếng Pháp: "Sommes venus commémorer nos aieux. Guyane, le 19 avril 2008" (Chúng tôi đã đến đây tưởng nhớ các cụ. Guyane ngày 19-4-2008). Dẫu sao, tôi cũng đã chụp được vài chục hồ sơ các cụ để
sớm trình cho gia quyến các cụ. Đã đến viếng tại chùa Một Cột ở Guyane. Cũng
đã tìm ra vài tông tích của những binh lính người Việt đầu tiên ngay từ đầu
thế kỷ 20 đã sang đến tận Sibérie lạnh giá chiến đấu và bỏ mình ở đó. Cũng đã
tìm ra dấu vết của một "cảng Bắc kỳ” xưa ở một thành phố cảng trên đất
Pháp, gần cảng mà các cụ đã phải ghé trước khi sang Guyane. Tất cả xin sẽ lần lượt trình với bạn đọc trong một ngày
gần đây. Không chỉ có nhà lao ở Guyane Tổ chức những hoạt động tôn vinh lòng yêu nước Trong niềm xúc động thật sự, tôi nhiệt thành hưởng ứng
hồ sơ "Nhà lao An Đó là những nhà lao có qui mô lớn, chưa kể đến những nhà tù nhỏ rải rác ở nhiều nơi khác trên thế giới. Trong thời gian tới, khi có điều kiện, TT hãy viết về những nhà lao này. Hi vọng trong hành trình tìm kiếm những thông tin, dấu tích của những người tù yêu nước VN, chúng ta sẽ nhận được sự hưởng ứng, đồng lòng của toàn xã hội.Nhân đây, thiết nghĩ với những nội dung của loạt bài "Nhà lao An Nam ở Guyane", để khắc ghi sự kiện 150 năm (1858-2008) ngày Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm VN, chúng ta nên tổ chức những hoạt động văn hóa mang tính xã hội nhằm tôn vinh lòng yêu nước, ý chí quật cường chống ngoại xâm của dân tộc ta, âu cũng là một trong những cách dạy và học sử ta một cách sinh động và hiệu quả. Tìm hiểu thêm bước đường lưu đày của cha ông các thời kỳ Loạt bài "Nhà lao An Nam ở Guyane" được nhiều
người đọc đặc biệt quan tâm. Đây là những câu chuyện dường như chưa từng được
ai nhắc đến hay tìm hiểu một cách kỹ lưỡng trước đây. Nhờ vậy, nó làm người
đọc khao khát muốn biết, muốn hiểu một cách tường tận. Nhiều người đã nhắc
đến một sự khơi gợi lòng yêu nước thiết thực, có ý nghĩa, thay vì chỉ những
trang sách đầy sự kiện khô cứng. Nhưng thật ra Guyane không phải là nơi duy nhất mà những
người VN yêu nước bị người Pháp chọn làm nơi giam cầm đày đọa. Từ năm 1885,
gia đình phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường đã bị người Pháp đày sang đảo
Tahiti trên Thái Bình Dương vì có xu hướng ủng hộ vua Hàm Nghi chống Pháp.
Sau đó ít lâu, cuối năm 1888, vua Hàm Nghi sau khi thất bại trong phong trào
Cần Vương cũng bị người Pháp đày sang Algeria, một thuộc địa của Pháp ở Bắc
Phi. Trong hoàng tộc, còn có cha con vua Thành Thái và Duy Tân cùng một số thành
viên gia đình cũng đã bị đày đến đảo Réunion thuộc Pháp vào tháng 11-1916 vì
những hoạt động chống Pháp... Chắc hẳn còn không ít địa danh khác ở nước ngoài cũng
từng là nơi giam hãm nhiều thế hệ người Việt yêu nước khác trong suốt gần 100
năm chống Pháp. Họ là một phần của những trang sử bi hùng của dân tộc ta
trong thời kỳ mất nước. Nếu có dịp, TT nên tìm hiểu thêm những bước đường lưu đày của cha ông trong các thời kỳ. Hẳn những câu chuyện này sinh động, có sức hấp dẫn và có tính giáo dục lòng yêu nước tốt hơn những bài học lịch sử đầy sự kiện trong sách giáo khoa các bậc học. |